Nếu tôi được cho một đồng xu mỗi lần nghe câu “Hạnh phúc là một lựa chọn”, thì tôi hẳn đã trở thành một người phụ nữ giàu có. Tôi cá là trong đời mình, vào một thời điểm nào đó, đã có người nói câu này với bạn. Và nếu nó khiến bạn cảm thấy tồi tệ về bản thân, thì bạn không hề đơn độc.
If I had a nickel for every time I heard the phrase, “Happiness is a choice,” I would be a very wealthy woman. I bet someone in your life, at some point, has said this to you. And if it makes you feel bad about yourself, you’re not alone.

Mặc dù đúng là ta có thể chọn cách ta phản ứng lại với những tình huống hoặc những hoàn cảnh ta gặp trong đời, nhưng ta hiếm khi nào chọn lựa chính những tình huống hay hoàn cảnh này – và nói theo cách đó, hạnh phúc không hoàn toàn phụ thuộc vào chúng ta.
While it’s true that we can choose how to react to situations or circumstances in our lives, we rarely get to choose those situations and circumstances themselves—and in that way, our happiness is not entirely up to us.
Vậy nên khi nào “hạnh phúc” là thứ ta có thể chọn, khi nào lại là thứ nằm ngoài kiểm soát? Hãy tiếp tục đọc bài viết để tìm hiểu thêm.
So when is “happiness” something we can choose, and when is it out of our control? Read on to find out.
Đầu tiên, điều gì ta có thể chọn? First of All, What Can We Choose?
Tưởng tượng bạn bị điểm kém trong kỳ thi giữa kỳ hoặc bị nhận xét là làm việc kém ở chỗ làm. Một mặt, bạn có thể đắm chìm trong cảm giác tự thương hại; mặt khác, bạn cũng có thể học được từ trải nghiệm và tìm ra kiểu hỗ trợ nào bạn cần để làm tốt hơn vào lần tới.
Say you get a bad grade on your midterm exam or a poor review at work. On the one hand, you could wallow in self-pity and blame external factors for your subpar results; or, you could learn from the experience and figure out what kind of help you’ll need to do better next time.
Đây là một tình huống nơi bạn, ít nhất là có thể chọn không để bản thân khổ sở – vốn rõ ràng là một thứ rất khác so với lựa chọn hạnh phúc. Nhưng với hầu hết mọi người, việc duy trì một thái độ tích cực khi đối mặt với khó khăn hoặc trở ngại là một lựa chọn. Trong thực tế, nó là một kỹ năng bạn có thể tập luyện được.
This is a situation in which you can, at least, choose not to be miserable—which is admittedly a very different thing from choosing to be happy. But for most people, maintaining a positive attitude in the face of hardship or adversity is a choice. In fact, it’s a skill you can practice.

Khái niệm “kiên cường” hay sức bật tinh thần đã được chứng minh là yếu tố phản ánh sức khỏe tinh thần tốt. Sức bật tinh thần là khả năng tiếp tục cố gắng mặc cho hoàn cảnh khó khăn, và thực sự đã được chứng minh là yếu tố bảo vệ ngăn sự phát triển của các bệnh lý tâm thần trong tương lai.
The concept of “resilience” has been proven to be a reflection of good mental health.1 Resilience means the ability to keep going despite difficult circumstances, and has actually been shown to be a protecting factor against the development of mental illness in the future.
Sức bật tinh thần cũng là một đặc tính mà bạn có thể xây dựng và củng cố; vậy nên theo đó, bạn có thể “chọn” kiên cường, vốn có thể làm tăng hạnh phúc về sau.
Resilience is also a trait you can develop and strengthen; so in this way, you can “choose” to be resilient, which is likely to increase your happiness going forward.
“Hạnh phúc” cũng có thể là sự phản ánh mối quan hệ của bạn với bản thân. Khi bạn làm điều sai, bạn có tự trách bản thân nhiều ngày trời không, hay bạn tha thứ cho chính mình và nhận ra ai rồi cũng phạm sai lầm? Khi điều tồi tệ xảy đến với mình, bạn có nói “khốn khổ thân tôi chưa” và nguyền rủa cả thế giới vốn rõ ràng cũng đã đang nguyền rủa bạn, hay bạn chọn vực dậy bản thân, phủi sạch bùn đất và cố tìm ra cách để cải thiện tình hình?
“Happiness” can also be a reflection of your relationship with yourself. When you do something wrong, do you beat yourself up for days on end, or do you forgive yourself and recognize that everyone makes mistakes? When something bad happens to you, do you say “Oh, woe is me” and curse the world that has so clearly cursed you, or do you pick yourself up, brush yourself off, and try to figure out how to make the situation better?
Nếu thực sự có thứ bạn có thể làm cho bản thân hay người khác mà giúp cải thiện tình hình, thì việc chọn làm điều đó có thể sẽ giúp bạn hạnh phúc.
If there is actually something you can do for yourself or others that will improve your circumstances, choosing to do that is a choice that will very likely support your happiness.
Việc học cách đối xử với bản thân bằng lòng vị tha và thấu hiểu, và rồi chọn làm điều đó, có thể là một bước rất dài giúp bạn đạt được và duy trì được trạng thái hạnh phúc trong đời, và nó là thứ bạn thường có thể kiểm soát được.
Learning how to treat yourself with forgiveness and understanding, and then choosing to do so, can go a long way towards obtaining and maintaining happiness in your life, and it’s something you can often control.
Vậy nên, mặc dù “hạnh phúc là một lựa chọn” là một câu sáo rỗng và thiển cận khiến bạn tưởng mình lúc nào cũng “phải” hạnh phúc, thì đúng là bạn có thể đưa ra những lựa chọn trong cuộc sống có thể dễ khiến bản thân hạnh phúc hơn.
So, while “happiness is a choice” is a hollow and myopic phrase that makes it seem as though you should never be unhappy, it is true that you can make choices in your life that can make it easier to be happy.
Thế nhưng, hạnh phúc là gì? What Is Happiness, Anyway?
Rất khó để giải thích “hạnh phúc” là gì. Vì mỗi người sẽ có quan điểm khác nhau về nó. Hạnh phúc là không có gì để phàn nàn? Hay là gần như lúc nào cũng trong tâm trạng tốt? Hay là có được an toàn tài chính, trong một mối quan hệ ổn định, hay có nhiều bạn bè? Câu trả lời là tất cả những điều vừa liệt kê. Không phải ai cũng có cùng chung định nghĩa về hạnh phúc.
It’s hard to explain what “happiness” is, because it looks different to different people. Is it a lack of things to complain about? Is it being in a good mood all or most of the time? Is it being financially secure, in a stable relationship, or having lots of friends? The answer is all of the above. Not everyone has the same definition of happiness.

Và tới lúc này, ta không nên phán xét người khác vì có định nghĩa về hạnh phúc khác chúng ta, hoặc phải hạnh phúc giống như cách ta hạnh phúc.
And to that point, we shouldn’t judge others for having a different definition of happiness than we do, or for being unhappy when we think they should be happy.
Không nhất thiết phải có điều gì sai thấy rõ thì mới khiến một người thấy bất hạnh; không ai thực sự hiểu rõ người khác chính xác đang trải qua những gì mới ảnh hưởng đến sự hạnh phúc của họ.
There doesn’t have to be something visibly “wrong” in order for someone to not be happy; no one ever really knows exactly what someone else is going through that might affect their happiness.
Điều này có nghĩa là, ngay cả khi những tình huống nhìn có vẻ thuận lợi, thì luôn có hàng tá lý do khiến mọi chuyện không như ta tưởng. Chúng ta là ai mà định nghĩa ai được hạnh phúc, ai không nên được hạnh phúc, nhất là khi ta không ở trong hoàn cảnh của họ?
That means that, even if circumstances look favorable from the outside, there are always a myriad of reasons why things may not be what they seem. Who are we to decide who should be happy and who shouldn’t be, especially when we are not walking in anyone else’s shoes?
Ngoài ra, những thứ khiến bạn hạnh phúc không nhất thiết là những thứ khiến người khác hạnh phúc. Có thể với bạn, an toàn tài chính là chìa khóa để có hạnh phúc, nhưng với người khác, có một mạng lưới bạn bè hỗ trợ quan trọng hơn kiếm được nhiều tiền. Cả hai đều hợp lý! Nhưng điều đó cũng có nghĩa là định nghĩa “hạnh phúc” khác nhau tùy từng người.
Also, the things that make you happy are not necessarily the things that make someone else happy. Maybe to you, financial stability is the key to your happiness, but to someone else, having a supportive network of friends is more important than making a lot of money. Both are valid! But that also means that the definition of “happiness” varies from person to person.
Khi nào hạnh phúc không phải một chọn lựa? When Happiness Is Not a Choice

Có nhiều tình huống và hoàn cảnh khi mà “chọn hạnh phúc” không còn thực tế hay khả thi nữa.
There are plenty of circumstances and situations in which “choosing to be happy” is not realistic or possible.
Trầm cảm. Clinical Depression
Tôi đã từng sống chung với bệnh trầm cảm trong gần hai thập kỷ, và cá nhân tôi có thể xác nhận sự thật rằng, khi bạn trầm cảm, bạn chẳng thể “chọn” hạnh phúc được.
I have lived with some form of clinical depression for almost two decades, and I can personally testify to the fact that, when you are depressed, you cannot “choose” to be happy.
Trầm cảm được định hình bởi cảm giác liên tục buồn bã hoặc tâm trạng trì trệ, mất hết hứng thú hoặc niềm vui với những thứ bình thường mình vẫn thích, và cảm giác vô vọng; trong nhiều trường hợp cực đoan, bạn còn muốn tự sát. Tôi đã từng trải nghiệm hết những điều này, và có thể tự tin mà nói rằng khi trầm cảm đỉnh điểm, hạnh phúc không chỉ là cái tôi không thể chọn, nó thậm chí còn chẳng phải là một lựa chọn.
Depression is characterized by things like a consistent low mood or sadness, loss of interest or pleasure in things that you otherwise would normally enjoy, and hopelessness; in extreme cases, you might also feel suicidal. I have experienced all these things, and can say with absolute confidence that when I am in the throes of depression, happiness is not only not a choice, it is not even an option.
Đối với người bệnh trầm cảm, nói “hạnh phúc là một chọn lựa” là hoàn toàn chối bỏ những triệu chứng rất xác thực cũng vô cùng khó chịu mà họ đang gặp phải.
To someone with depression, saying “happiness is a choice” completely dismisses the very real and very challenging symptoms they are experiencing.
Ta thực sự nghĩ người mắc trầm cảm đã “chọn” cảm thấy như vậy sao? Rằng nếu được chọn hạnh phúc, họ lại chủ động chọn bất hạnh à? Không. Không ai muốn bị trầm cảm hết.
Do we really think that someone with depression has “chosen” to feel that way? That if they had the “choice” to be happy, they would actively choose not to be? No. No one wants to be depressed.
Nếu bạn có quen một người mắc trầm cảm, làm ơn đừng bao giờ nói, “hạnh phúc là một sự lựa chọn.” Với họ là không phải. Với họ, hạnh phúc là một mục tiêu chẳng thể đạt được, ít nhất là cho đến khi đợt trầm cảm qua đi. Không ai dùng lý trí mà thoát ra khỏi trầm cảm được.
If you know someone who is depressed, please don’t ever say, “Happiness is a choice.” To them, it’s not. To them, happiness is an unreachable goal, at least until their depressive episode subsides. No one can will their way out of depression.

Tình trạng kinh tế xã hội thấp. Low Socioeconomic Status
Khó mà hạnh phúc được khi bạn không biết bữa ăn tiếp theo đến từ đâu hay liệu bạn có thể trả được tiền thuê nhà tháng này không. Và mặc dù bạn vẫn có thể duy trì thái độ tích cực khi đối mặt với trắc trở, nhưng việc đóng khung nhận thức “hạnh phúc là một lựa chọn” hạn chế đáng kể những gian nan mà những người đang gặp khó khăn về tài chính phải đối mặt.
It’s hard to be happy when you don’t know where your next meal is coming from or if you’ll be able to pay your rent this month. And although it is certainly possible to maintain a positive attitude in the face of adversity, putting it in the framework of “happiness is a choice” greatly diminishes the hardships faced by those in dire financial straits.
Bằng cách đặt “chọn lựa” làm trọng tâm của mọi thứ, ta khiến những hoàn cảnh này thành 2 thái cực: hoặc là hạnh phúc, hoặc là không. Và đời sống thì không đơn giản như thế. Thực tế, “hạnh phúc là một phổ dao động, không phải đơn điểm – nhưng câu “hạnh phúc là một lựa chọn” không công nhận điều này. Thay vào đó, nó khiến “hạnh phúc” trở thành một điểm đến cố định dễ dàng đạt được – nhưng thực tế không như thế.
By putting “choice” at the center of things, we make these circumstances binary: either you are happy or you are not. And life is not that simple. In actuality, “happiness” is a spectrum, not one single point—but the phrase “happiness is a choice” does not recognize this. Instead, that makes “happiness” a definitive destination that is easily obtainable—but it’s not.
Nói “hạnh phúc là một lựa chọn” với người đang sống lay lắt bằng từng đồng lương ít ỏi, người đang đói khát, hoặc người sống trên đường phố là cực kỳ thiển cận và ngột ngạt với người nghe.
Saying “happiness is a choice” to someone who is living paycheck to paycheck, who is starving, or who is living on the streets does not recognize how overwhelming and shortsighted the “choice” of “happiness” would actually be.
Tôi nghĩ nhiều người, sau khi gặp những người sống trong nghèo đói cùng cực mà vẫn duy trì được hạnh phúc thực sự, có thể nghi ngờ không biết đối phương có còn tỉnh táo không. Là vì ta có thể nhận ra sự khác biệt giữa “sức bật tinh thần” và “hạnh phúc” – sự khác biệt giữa cố gắng hết mình trong nghịch cảnh và trải nghiệm hạnh phúc thực sự.
I think many people, upon meeting a person living in extreme poverty who maintained that they were genuinely “happy,” might question that person’s sanity. That’s because we can recognize the difference between “resilience” and “happiness”—the difference between making the best of a bad situation and experiencing true happiness.
Và mặc dù bạn không thể thực sự hạnh phúc khi phải chịu đựng hoàn cảnh khó khăn, nhưng nói “hạnh phúc là một chọn lựa” với một người đang trải qua đau khổ là kém tinh tế và độc ác.
And while it’s not impossible to be truly happy while enduring difficult circumstances, saying “happiness is a choice” to someone who is suffering is insensitive and cruel.
Bệnh mãn tính. Chronic Illness
Tôi không chắc có ai trong chúng ta sẽ nói với một bệnh nhân ung thư rằng họ cần phải vui vẻ. Và hầu hết mọi người đều sẽ bị sốc khi nghe ai đó đang chiến đấu với ung thư hay một bệnh lý chết người nào đó mô tả bản thân là “hạnh phúc.” Vậy tại sao ta lại nói họ rằng “hạnh phúc là một lựa chọn?”
I’m not sure there’s one among us who would tell a cancer patient that they need to be happy. And most people would be shocked to hear someone battling cancer or some other life-threatening condition describe themselves as “happy.” So why would we tell them that “happiness is a choice?”
Điều này, lại một lần nữa, mô tả sự khác biệt giữa sức bật tinh thần và hạnh phúc. Sức bật tinh thần khi đối mặt với một chẩn đoán đáng sợ đã được chứng minh là giúp cải thiện kết quả điều trị; tuy nhiên, duy trì tâm thế lạc quan, coi thử thách là cơ hội phát triển, và tập trung vào những thế mạnh của bản thân – tất cả đều là những đặc điểm của sức bật tinh thần – không ngang hàng với “hạnh phúc.”
This, again, illustrates the difference between resilience and happiness. Resilience in the face of a frightening diagnosis has been proven to improve health outcomes;2 however, remaining optimistic, looking at challenges as an opportunity to grow, and focusing on your own personal strengths—all characteristics of resilience—do not equate to “happiness.”
“Hạnh phúc là một lựa chọn” ngụ ý rằng một người nên chọn hạnh phúc. Nhưng nếu “hạnh phúc” không phải là một mong đợi hợp lý như trong tình huống khi một người đang chiến đấu chống lại bệnh lý chết người – thì chẳng có nghĩa lý gì khi coi nó một lựa chọn cả.
“Happiness is a choice” implies that one should choose to be happy. But if “happiness” is not a reasonable expectation considering the situation—like someone battling a deadly illness—it doesn’t make much sense to present it as an option.

Vậy nên thay vì nói “hạnh phúc là một lựa chọn” với một người mắc bệnh mãn tính, hãy nhắc họ nhớ rằng họ mạnh mẽ đến thế nào và họ có ý nghĩa lớn thế nào với bạn; điều này sẽ giúp họ tập trung vào mặt tích cực mà không mong đợi vô lý về việc phải duy trì hạnh phúc.
So instead of saying “happiness is a choice” to someone living with chronic illness, instead remind them how strong they are and how much they mean to you; this will help them focus on the positive without the unreasonable expectation of maintaining “happiness.”
Phân biệt đối xử và phân biệt chủng tộc. Discrimination and Racism
Người thuộc các cộng đồng người da màu hoặc LGBTQ+ đối mặt với nhiều khó khăn mà người thuộc cộng đồng đa số không có; có thể là, dễ có địa vị xã hội thấp hơn và dễ bị phân biệt đối xử, nguy cơ mắc bệnh lý tâm thần cao hơn. Việc nói với người thuộc một trong những cộng đồng này rằng “hạnh phúc là một lựa chọn” sẽ ngó lơ tất cả những yếu tố nguy cơ và những bất lợi đo đếm được này.
People belonging to BIPOC or LGBTQIA+ communities face hardships that people in the majority do not; namely, higher risk of a lower socioeconomic status and discrimination, and a higher risk of mental illness. Telling someone in one of these communities that “happiness is a choice” ignores all of these risk factors and quantifiable disadvantages.
Đương nhiên, mặc dù ta vẫn có thể hạnh phúc khi là người của những cộng đồng này – và sẽ thật nực cười khi nói bạn không thể – việc nói “hạnh phúc là một chọn lựa” khi ai đó nói bạn về một vụ phân biệt đối xử hay phân biệt chủng tộc mà họ đang gặp phải là thiển cận và cũng chính là một điều phân biệt đối xử.
While it is, of course, possible to be happy as a member of a marginalized community—it would be ludicrous to say you couldn’t be—saying “happiness is a choice” when someone tells you about an incident of discrimination or racism that they experienced is shortsighted and discriminatory in itself.
Điều này đặt gánh nặng trách nhiệm lên cá nhân người bị phân biệt đối xử thay vì người có hành vi này – về cơ bản, giống như nói “Bạn vốn nên cư xử khác đi” thay vì “họ vốn không nên làm như vậy với bạn.”
It places the onus of responsibility on the individual who was discriminated against rather than the person or people doing the discriminating—essentially saying, “You should have reacted differently” rather than “They shouldn’t have done that to you.”
Vậy nên, nếu ai đó kể cho bạn nghe rằng họ từng bị phân biệt đối xử, thay vì buông lời “hạnh phúc là một chọn lựa,” hãy cố hiểu những gì họ đang trải qua và cho thấy sự hỗ trợ (ví dụ, “điều này quá kinh khủng”, “tôi lấy làm tiếc vì điều ấy xảy đến với bạn,” “Bạn không xứng đáng bị như vậy,” “Hành vi đó thật không thể chấp nhận được”). Cảm thấy được hỗ trợ sau những sự việc như thế này có thể giúp tăng cường sức bật tinh thần tốt hơn trong tương lai.
So, if someone is telling you about some discrimination they’ve experienced, rather than spouting “Happiness is a choice,” try your best to understand what they’ve gone through and show them support (e.g., “That sounds horrible,” “I’m sorry that happened to you,” “You didn’t deserve that,” “That behavior is totally unacceptable”). Feeling supported after incidents like this can lead to greater resilience in the future.

Kết luận. Final Thoughts
Mặc dù ta thường có khả năng thích nghi quan điểm về mọi thứ xảy đến với chúng ta – tốt hay xấu – nhưng câu “hạnh phúc là một lựa chọn” là vô nghĩa và thiển cận hiếm khi nào cân nhắc được nhiều tình huống rộng hơn.
Although it is often within our power to adapt our perspectives about the things that happen to us—good or bad—the phrase “happiness is a choice” is a meaningless and myopic platitude that rarely takes broader circumstances into account.
Mặc dù hầu như mọi người đều có thể trải nghiệm hạnh phúc ở một thời điểm nào đó trong đời, việc nói với một người hạnh phúc chính lựa chọn của họ không chính xác phản ánh được thế giới gian nan và phức tạp mà hầu hết chúng ta đang sống.
And while it is possible for just about anyone to experience happiness at some point in their lives, telling someone it’s their choice and their choice alone does not accurately reflect the difficult and complicated world most of us live in.
Tham khảo. Sources
Shrivastava A, Desousa A. Resilience: A psychobiological construct for psychiatric disorders. Indian J Psychiatry. 2016 Jan-Mar;58(1):38-43. doi: 10.4103/0019-5545.174365. PMID: 26985103; PMCID: PMC4776579.
Babić R, Babić M, Rastović P, Ćurlin M, Šimić J, Mandić K, Pavlović K. Resilience in Health and Illness. Psychiatr Danub. 2020 Sep;32(Suppl 2):226-232. PMID: 32970640.
Nguồn: https://www.verywellmind.com/is-happiness-really-a-choice-8722216
Như Trang.
