Tâm lý học truyền thông là một nhánh mới của tâm lý học, đi sâu tìm hiểu những cách thức mà truyền thông và công nghệ tác động lên con người.
Media psychology is a newer branch of psychology that examines the ways people are impacted by media and technology.

Đời sống của chúng ta liên tục bị bão hòa bởi truyền thông và công nghệ, kết quả là, việc tìm hiểu tác động của truyền thông đã trở thành một phần quan trọng trong tâm lý học. Tuy nhiên, bản chất đa ngành của lĩnh vực này cùng với những sự thay đổi liên tục trong cách con người ta tương tác với truyền thông khiến lĩnh vực này rất khó để định nghĩa.
Our lives are constantly saturated with media and technology and, as a result, studying the impact of media has become an integral part of psychology. However, the field’s interdisciplinary nature and the constant changes in how people interact with media make the area of study difficult to define.
Tâm lý học truyền thông lấy ra khá nhiều nội dung từ tâm lý học và chuyên ngành truyền thông, nhưng nó cũng kết hợp nghiên cứu từ các ngành học khác, bao gồm xã hội học, nghiên cứu về truyền thông, nhân chủng học và nghiên cứu về người hâm mộ. Ngành học này rải rác khắp các lĩnh vực khác nhau, nhiều học giả không ghi nhận ảnh hưởng của truyền thông liên cá nhân là ngành nghiên cứu chính về tâm lý học mà họ theo đuổi, thay vào đó, coi nó chỉ là một chủ đề nhánh trong một chủ đề chuyên môn lớn hơn.
Media psychology draws heavily from psychology and communication scholarship, but also incorporates research from other fields, including sociology, media studies, anthropology, and fan studies. The field is scattered across many disciplines with many scholars who do not consider psychology their primary area of interest of research to be media’s influence on individuals, rather a subtopic within a larger subject of expertise.
Có lẽ định nghĩa mô tả đúng nhất chiều sâu và chiều rộng của ngành học này định nghĩ của Karen Dill trong Cuốn Oxford Handbook of Media Psychology: “Tâm lý học truyền thông là ngành khoa học nghiên cứu hành vi, suy nghĩ và cảm xúc của con người trong bối cảnh sử dụng và sáng tạo truyền thông.”
Perhaps the definition that best captures the depth and breadth of the field is offered by Karen Dill in The Oxford Handbook of Media Psychology: “Media psychology is the scientific study of human behavior, thoughts, and feelings experienced in the context of media use and creation.”1
Nói cách khác, tâm lý học truyền thông là nỗ lực cố gắng hiểu được sự kết nối liên tục thay đổi giữa con người và truyền thông từ góc nhìn tâm lý học.”
In other words, media psychology is the effort to understand the constantly evolving connection between humans and media from a psychological perspective.2

Lịch sử tâm lý học truyền thông. History of Media Psychology
Gốc rễ của tâm lý học truyền thông có thể xuất hiện từ hơn một thế kỷ trước với những nghiên cứu đầu tiên về nhận thức về không gian ba chiều trên khung vẽ hai chiều.
The roots of media psychology can be traced back over a century to early studies on the perception of three-dimensional space on a two-dimensional canvas.3
Những ý tưởng này được áp dụng trong cuốn sách của nhà tâm lý học xã hội Hugo Munsterberg năm 1916, The Photoplay: A Psychological Study, là cuốn sách đầu tiên dùng thực nghiệm để tìm hiểu quá trình người xem phản hồi với phim ảnh. Cho tới thời điểm TV trở nên phổ biến rộng khắp trong những năm 1950, thì trước đó các nhà tâm lý học đã bắt đầu tìm hiểu quá trình ảnh hưởng của truyền thông lên trẻ em.
These ideas were applied in social psychologist Hugo Munsterberg’s 1916 book, The Photoplay: A Psychological Study, which was the first work to empirically explore how an audience responded to film.4 By the time television became widespread in the 1950s, psychologists had started to investigate how media affects children.5
Tuy nhiên, tâm lý học truyền thông vẫn chưa được công nhận là một nhóm ngành chính thức của tâm lý học cho đến năm 1986 khi Phân khúc 46: Tâm lý học truyền thông được thiết lập bởi Hiệp Hội Tâm Lý học Hoa Kỳ (APA). Ban đầu, phân khúc này tập trung vào các nhà tâm lý học nào có xuất hiện trên truyền thông cung cấp những nguồn tin chuyên môn, và đây là vẫn một mục tiêu được liệt kê trong sứ mệnh của ngành này. Nhưng phân khúc 46, sau đó được đổi tên thành Xã hội cho Công nghệ và Tâm lý học truyền thông, giờ đây đã chuyển sự tập trung sang nghiên cứu những tác động và ảnh hưởng của truyền thông.
However, media psychology wasn’t recognized as an official field in the discipline of psychology until 1986 when Division 46: Media Psychology was established by the American Psychological Association (APA). Initially, the division focused on psychologists who appeared in media as expert sources, an objective that is still listed as part of its mission. But Division 46, which has since changed its name to the Society for Media Psychology and Technology, has now shifted its focus to research on the effects and influence of media.1
Năm 2003, chương trình tiến sĩ đầu tiên về tâm lý học truyền thông được APA công nhận, tính đến nay, chỉ được thực hiện ở Fielding Graduate University. David Giles đã ra mắt khảo sát đầu tiên trong lĩnh vực này trong cuốn sách giáo khoa Tâm lý học truyền thông do ông biên soạn.
In 2003 the first, and so far, only APA-accredited media psychology Ph.D. program in the United States was launched at Fielding Graduate University. David Giles published the first survey of the field with his text Media Psychology.
Kể từ đó, lĩnh vực này đã tiếp tục mở rộng, với sự xuất hiện của nhiều tập san chuyên ngành dành riêng cho tâm lý học truyền thông, nhiều cuốn khác về ngành học này cũng được xuất bản, và sự tăng lên của các trường đại học, bao gồm Stanford, Cornell, và Penn State, đã ghi nhận ngành học này và những nghiên cứu về các đề tài liên quan đến tâm lý học truyền thông.
Since then, the field has continued to expand, with the emergence of several scholarly journals specifically dedicated to media psychology, the publication of additional books covering the area of study, and an increase in universities, including Stanford, Cornell, and Penn State, which dedicate an area of study and research to media psychology-related topics.
Các chủ đề. Topics in Media Psychology

Có vô số chủ đề mà tâm lý học truyền thông tìm hiểu. Bao gồm, nhưng không giới hạn ở:
There are myriad topics media psychology seeks to explore. These include, but are not limited to:
– Tác động của truyền thông, như liệu tiếp xúc với bạo lực trên các truyền thông có làm tăng tính hung hăng không, cách hình dung về vai trò giới trên truyền thông ảnh hưởng lên hiểu biết của con trẻ về chính bản dạng giới của chúng, và cách những thông điệp trên truyền thông được xây dựng để thuyết phục ai đó ủng hộ từ thiện hoặc hành xử theo một cách nào đó được xã hội công nhận.
Media influence, such as whether exposure to media depictions of violence increases aggression, how depictions of gender roles in media influence children’s understanding of their own gender identity, and how media messages can be constructed to persuade someone to donate to charity or behave in other prosocial ways.
– Học trực tuyến, cách mà các bài học trực tiếp nên được điều chỉnh để chúng có thể được thực hiện một cách hiệu quả cao nhất cho những học sinh trực tuyến ở nhiều nhóm độ tuổi, và cách hiệu quả nhất để thiết lập các nền tảng học trực tuyến để duy trì sự chú ý của học sinh và tiếp thu thông tin.
Online learning, such as the way in-person lessons must be adjusted so they can most effectively be communicated to students online across different age groups, and the most effective ways to set up online learning platforms to sustain student attention and uphold information absorption.
– Tác động của mạng xã hội, như cách thức những nền tảng nào có thể được điều chỉnh để tạo ra bức tranh toàn cảnh hơn về thế giới, thay vì chỉ là những nhóm những cá nhân có cùng kiểu tư tưởng mà mạng xã hội đang thúc đẩy, cách những mối quan hệ bị tác động khi chúng được diễn ra chủ yếu hoặc hầu như chỉ trên mạng xã hội, và làm sao để giảm bớt tình trạng bắt nạt trực tuyến và những hành vi tiêu cực khác trên mạng.
Impact of social media, such as how platforms can be adjusted to create a more comprehensive picture of the world rather than silos of like-minded individuals social media currently encourages, how relationships are impacted when they’re conducted mostly or solely over social media, and how to decrease cyberbullying and other negative online behaviors.
– Gắn kết người xem, như tại sao ta lại cười và khóc khi xem phim, show truyền hình, và podcast, cách mà nhiều câu chuyện ảnh hưởng lên cảm nhận của ta về lòng tự trọng, và quá trình cũng như lý do tại sao những người hâm mộ văn hóa đại chúng lại cùng nhau tập hợp thành những cộng đồng hỗ trợ nhau.
Audience involvement, such as why we laugh and cry at movies, TV shows, and podcasts, how stories influence our sense of self-esteem, and how and why popular culture fans come together to form supportive communities.
Tâm lý học truyền thông trong nghiên cứu và thực hành. Media Psychology in Research and Practice
Trong khi nhiều nhánh của tâm lý học đã được định hướng nghề nghiệp khá rõ ràng thì tâm lý học truyền thông vẫn chưa, vì nó là một lãnh vực nghiên cứu mới vẫn trong quá trình xác định phạm vi và tầm nhìn. Mục tiêu rõ ràng nhất với một người muốn tìm hiểu tác động vào tâm lý của truyền thông là trở thành một nhà tâm lý học chuyên về nghiên cứu học thuật.
While many branches of psychology have more defined career paths, media psychology does not because it is a new area of study still in the process of determining its scope and purview. The most obvious goal for someone who wants to investigate the psychological impact of media is to become a research psychologist in academia.
Với sự lớn mạnh nhanh chóng của công nghệ gây ảnh hưởng lên cách ta tìm hiểu, giao tiếp và thấu hiểu người khác, việc có thêm nhiều học giả có thể thực hiện các nghiên cứu tâm lý học về truyền thông ngày càng cần thiết.
Given the rapid growth of technology influencing how we get to know, communicate with, and understand one another, scholars who can perform media psychology research are increasingly necessary.
Tuy nhiên, nghiên cứu học thuật không phải là con đường duy nhất cho những ai có quan tâm đến tâm lý học truyền thông. Thế giới công nghệ truyền thông rộng mở hơn bao giờ hết mang đến rất nhiều cơ hội để gia nhập vào tâm lý học truyền thông với nhiều bối cảnh nghề nghiệp khác nhau, từ giải trí đến giáo dục, chính trị.
However, scholarly research is not the only path for people with an interest in media psychology. The ever-expanding world of media technologies leaves many opportunities to apply media psychology in a wide variety of industry settings, from entertainment to education to politics.
Ví dụ, người thiết kế trải nghiệm người dùng trong tất cả mọi thứ từ các trang web thương mại đến thực tế ảo đều cần hiểu được quá trình tạo ra một giao diện người dùng vừa mang tính trực giác, vừa gắn kết người dùng.
For example, people who design user experiences for everything from commercial websites to virtual reality require an understanding of how to create a user interface that is intuitive and engaging for people.
Tương tự, việc dạy trẻ em các bài học về truyền thông và thông tin cơ bản về mạng từ độ tuổi nhỏ ngày càng quan trọng. Các nhà tâm lý học truyền thông đặc biệt có trình độ trong thiết kế và thực hiện các chương trình để giải quyết điều này.
Similarly, it’s increasingly important to teach children lessons in media and cyberliteracy starting from a young age. Media psychologists are especially well qualified to design and implement programs addressing this.
Tương lai của Tâm lý học truyền thông. The Future of Media Psychology

Mặc dù những nghiên cứu đầu tiên về tâm lý học truyền thông chủ yếu tập trung vào những tác động tiêu cực của truyền thông nhưng truyền thông hay công nghệ không phải chỉ tốt hoặc chỉ có xấu. Cách ta sử dụng nó mới quan trọng. Và, vì truyền thông ngày càng phổ biến đâu đâu cũng có, nên chúng ta cần học cách tối đa hóa những điều tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực.
While early media psychology research almost exclusively focused on the negative impacts of media, media and technology aren’t all good or all bad. It’s how we use them that matters. And, because media is only becoming increasingly ubiquitous, we must learn to maximize the positives and minimize the negatives.
Các nhà tâm lý học truyền thông có một vai trò thiết yếu trong sự phát triển này và mặc dù vẫn nên chú trọng vào việc làm sáng tỏ những tác động tiêu cực của truyền thông khi nó tiếp tục thay đổi, họ cũng nên chú ý nhiều hơn đến quá trình truyền thông có thể được sử dụng để gia tăng sức khỏe và hỗ trợ thúc đẩy xã hội.
Media psychologists have an essential role to play in these developments and, while they shouldn’t shy away from shedding light on the negative impacts of media as it continues to evolve, they should also increase their focus on the way media can be used to increase well-being and prosocial outcomes.
Tham khảo. Sources
Dill, KE. Introduction. In: Dill KE, ed. The Oxford Handbook Of Media Psychology. 1st ed. Oxford University Press; 2012.
Brown Rutledge P. Arguing for Media Psychology as a Distinct Field. In: Dill KE, ed. The Oxford Handbook Of Media Psychology. 1st ed. Oxford University Press; 2012.
Tuma RM. Media Psychology and Its History. In: Dill KE, ed. The Oxford Handbook Of Media Psychology. 1st ed. Oxford University Press; 2012.
Fischoff S. Media Psychology: A Personal Essay in Definition and Purview. J Media Psychol. 2005;10(1):1-21.
Stever GS. Media and Media Psychology. In: Stever GS, Giles DC, Cohen JD, Myers ME. Understanding Media Psychology. 1st ed. New York: Routledge; 2021:1-13.
What Is the American Psychological Association (APA)?
Nguồn: https://www.verywellmind.com/what-is-media-psychology-5210628
Như Trang.