Khái niệm hay định nghĩa về bản thân là hình ảnh ta có về chính mình. Phạm trù này bị tác động bởi nhiều yếu tố, bao gồm tương tác của chúng ta với những người quan trọng trong cuộc sống. Là cách ta nhìn nhận hành vi, năng lực và những đặc tính độc nhất ở chính mình. Ví dụ, những niềm tin như “Tôi là một người bạn tốt” hay “Tôi là một người tử tế” đều là một phần của định nghĩa bản thân.

Self-concept is the image we have of ourselves. It is influenced by many forces, including our interaction with the important people in our lives. It is how we perceive our behaviors, abilities, and unique characteristics.1 For example, beliefs such as “I am a good friend” or “I am a kind person” are part of an overall self-concept.

Nguồn: Marketing91

Những ví dụ khác về quá trình tự định nghĩa bản thân: Other examples of self-concept include:

– Cách bạn nhìn nhận những đặc trưng tính cách của bản thân, như mình là người hướng ngoại hay hướng nội. How you view your personality traits, such as whether you are an extrovert or introvert

– Các bạn nhìn nhận các vai trò của bản thân trong đời sống, như bản thân có cảm thấy cha mẹ, anh chị em, bạn bè hay bạn đời là những khía cạnh quan trọng trong nhân dạng bản thân hay không. How you see your roles in life, such as whether you feel that being a parent, sibling, friend, and partner are important parts of your identity

– Những thú vui hay đam mê quan trọng trong cảm nhận của bạn về bản dạng cá nhân, như một người chơi thể thao đầy nhiệt huyết hoặc thuộc về một đảng phái chính trị hay nhóm tôn giáo nhất định. The hobbies or passions that are important to your sense of identity, such as being a sports enthusiast or belonging to a particular political party or religious group

– Cách bạn cảm nhận về tương tác giữa mình và thế giới, như liệu bạn nghĩ mình có đang đóng góp cho xã hội hay không. How you feel about your interactions with the world, such as whether you think that you are contributing to society

– Tự nhận thức bản thân là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lên động lực, thái độ và hành vi của chúng ta. Nó cũng ảnh hưởng lên cách ta cảm nhận về con người chính mình, bao gồm cả năng lực và giá trị của bản thân. Our self-perception is important because it affects our motivations, attitudes, and behaviors. It also affects how we feel about the person we think we are, including whether we are competent or have self-worth.2

Nguồn: CNET

Định nghĩa về bản thân sẽ linh hoạt hơn khi ta còn trẻ, vẫn đang khám phá chính mình và xây dựng hình ảnh bản thân. Khi ta dần có tuổi và biết được mình là ai và điều gì là quan trọng với chúng ta thì những khái niệm hay nhận thức về bản thân này sẽ chi tiết và có tổ chức hơn.

Self-concept tends to be more malleable when we’re younger and still going through self-discovery and identity formation. As we age and learn who we are and what’s important to us, these self-perceptions become much more detailed and organized.

Ở cấp độ cơ bản nhất, khái niệm về bản thân là một tập hợp các niềm tin ta có về bản thân và phản hồi của mọi người. Nó bao gồm câu trả lời cho câu hỏi: “Tôi là ai?” Nếu bạn muốn tìm ra định nghĩa về bản thân, hãy liệt kê những điều mô tả cá nhân con người bạn. Đặc tính của bạn là gì? Bạn thấy bản thân thế nào?

At its most basic, self-concept is a collection of beliefs one holds about oneself and the responses of others. It embodies the answer to the question: “Who am I?” If you want to find your self-concept, list things that describe you as an individual. What are your traits? What do you like? How do you feel about yourself?

Định nghĩa của Carl Rogers về tự định nghĩa bản thân. How Carl Rogers Defines Self-Concept

Nhà tâm lý học nhân văn Carl Rogers tin rằng tự định nghĩa bản thân được cấu thành từ ba bộ phận chính: con người lý tưởng, hình dung về bản thân và lòng tự trọng. Học thuyết của ông giải thích những điều sẽ xảy ra khi các bộ phận này đồng nhất hay không đồng nhất với thực tế, từ đó ảnh hưởng lên định nghĩa về bản thân.

Humanist psychologist Carl Rogers believed that self-concept is made up of three distinct parts: ideal self, self-image, and self-esteem. His theory explains what it means when these parts are congruent or incongruent with reality that impacts your self-concept.

Ba bộ phận của tự định nghĩa bản thân. Three Parts of Self-Concept

Nguồn: Beyondpsychub

Rogers mô tả định nghĩa về bản thân có 3 cấu phần chính: Rogers described the self-concept as being composed of three parts:

– Con người lý tưởng: Con người lý tưởng là con người bạn muốn trở thành. Con người này có những đặc tính hoặc phẩm chất bạn bạn hoặc đang nỗ lực đạt tới hoặc muốn sở hữu. Nó là người bạn mường tượng mình sẽ trở thành nếu bạn được trở thành chính xác con người này. Ideal self: The ideal self is the person you want to be. This person has the attributes or qualities you are either working toward or want to possess. It’s who you envision yourself to be if you were exactly the person you wanted to be.

– Tự hình dung về bản thân: là cách bạn nhìn nhận bản thân ngay thời điểm này. Đặc điểm cơ thể, đặc trưng tính cách và vai trò xã hội nào ảnh hưởng lên hình dung của bạn về bản thân.

Self-image: Self-image refers to how you see yourself at this moment in time. Physical characteristics, personality traits, and social roles affect your self-image.

– Lòng tự trọng: Mức độ yêu thích, chấp nhận và coi trọng bản thân góp phần vào quá trình tự định nghĩa bản thân. Tự trọng có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm cách người khác nhìn nhận bạn, cách bạn nghĩ và so sánh bản thân với người khác, và vai trò của bạn trong xã hội.

Self-esteem: How much you like, accept, and value yourself contributes to your self-concept. Self-esteem can be affected by a number of factors, including how others see you, how you think you compare to others, and your role in society.3

Không thống nhất và Thống nhất. Incongruence and Congruence

Tự định nghĩa bản thân không phải lúc nào cũng thống nhất với thực tế. Khi khớp với thực tế, ta gọi nó là  có tính thống nhất.Nếu cách bạn nhìn nhận bản thân (tự hình dung về bản thân) và người bạn muốn trở thành (con người lý tưởng) không khớp với nhau, thì định nghĩa về bản thân của bạn không thống nhất. Sự không thống nhất này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lòng tự trọng.

Self-concept is not always aligned with reality. When it is aligned, it is said to be congruent. If there is a mismatch between how you see yourself (your self-image) and who you wish you were (your ideal self), your self-concept is incongruent. This incongruence can negatively affect self-esteem.4

Rogers tin rằng sự không thống nhất có gốc rễ ngay từ thời thơ ấu. Khi cha mẹ đặt ra điều kiện để trao đi yêu thương cho con mình (Ví dụ, chỉ thể hiện yêu thương nếu trẻ “tự kiếm được nó” nhờ một số hành vi nhất định và sống đúng theo kỳ vọng của cha mẹ), trẻ sẽ bắt đầu bóp méo ký ức về những trải nghiệm khiến chúng cảm thấy mình không xứng với tình yêu của cha mẹ.

Rogers believed that incongruence has its earliest roots in childhood. When parents place conditions on their affection for their children (e.g., only expressing love if children “earn it” through certain behaviors and living up to the parents’ expectations), children begin to distort their memories of experiences that leave them feeling unworthy of their parents’ love.4

Mặt khác, tình yêu vô điều kiện giúp bồi đắp sự thống nhất. Trẻ nhận được tình yêu này – còn gọi là tình yêu gia đình – sẽ cảm thấy không cần phải liên tục bóp méo những ký ức để tin rằng mọi người sẽ yêu thương và chấp nhận con người thật của mình.

Unconditional love, on the other hand, helps to foster congruence. Children who experience such love—also referred to as family love—feel no need to continually distort their memories in order to believe that other people will love and accept them as they are.

Tình yêu vô điều kiện. Unconditional Love

Tình yêu vô điều kiện, mặt khác, lại giúp bồi đắp sự thống nhất giữa tự định nghĩa bản thân và thực tế, từ đó nuôi dưỡng lòng tự trọng.

Unconditional love, on the other hand, helps to foster congruence between self-concept and reality and thereby nurtures positive self-esteem.

Tự đinh nghĩa bản thân hình thành thế nào? How Self-Concept Develops

Một phần sự phát triển của tự định nghĩa là thông qua tương tác của chúng ta và quan sát của mọi người. Ngoài thành viên gia đình và bạn bè thân thiết, những người khác trong cộng đồng và truyền thông có thể góp phần vào hình thành bản dạng cá nhân.

Self-concept develops, in part, through our interaction and observation of others. In addition to family members and close friends, other people in our community and in the media can contribute to our self-identity.

– Người tin tưởng bạn. Ví dụ, một nghiên cứu phát hiện ra rằng giáo viên càng tin vào năng lực của một học sinh giỏi thì định nghĩa bản thân của học sinh này sẽ càng cao.

Someone believes in you. For instance, one study found that the more a teacher believes in a high-performing student’s abilities, the higher that student’s self-concept.5 (Interestingly, no such association was found with lower-performing students.)

Nguồn: Beyondpsychub

– Những nhân vật ta thấy giống bản thân. Tự định nghĩa có thể được hình thành qua các câu chuyện ta nghe thấy. Ví dụ, một nghiên cứu phát hiện ra rằng độc giả nào “hòa mình” sâu sắc vào câu chuyện về một nhân vật chính có vai trò giới tính truyền thống sẽ có cách tự định nghĩa bản thân theo hướng nữ quyền hơn là những người không bị cảm động bởi câu chuyện. Vì vậy, thấy mình liên quan hay giống với một nhân vật nào có thể ảnh hưởng lên phản ứng cảm xúc của bạn và xác nhận hoặc thay đổi ý kiến của bản thân bạn về chính mình.

The characters we identify with. Self-concept can also be developed through the stories we hear. For example, one study found that female readers who were “deeply transported” into a story about a leading character with a traditional gender role had a more feminist self-concept than those who weren’t as moved by the story. Thus, relating to and identifying with the character may affect your emotional response and confirm or alter your own ideas about yourself.

– Truyền thông. Cả truyền thông đại chúng và mạng xã hội đều đóng vai trò lớn trong sự phát triển định nghĩa bản thân. Khi truyền thông ủng hộ một số hình mẫu lý tưởng nào đó, ta sẽ dễ biến những hình mẫu này làm hình mẫu của mình. Những hình mẫu lý tưởng này càng được thể hiện thường xuyên thì chúng càng ảnh hưởng đến bản dạng cá nhân và cách ta nhận thức về chính mình.

The media. Both mass media and social media also play a role in self-concept development. When these media promote certain ideals, we’re more likely to make those ideals our own. The more often these ideals are presented, the more they affect our self-identity and self-perception.6

Tự định nghĩa bản thân có thể bị thay đổi? Can Self-Concept Be Changed?

Tự định nghĩa bản thân không cố định, tức là nó có thể thay đổi. Môi trường đóng một vai trò quan trọng trong quá trình này. Những nơi ta tiếp xúc, đặc biệt là những nơi có ý nghĩa lớn với ta, sẽ chủ động góp phần vào sự tự định nghĩa bản thân trong tương lai qua cách ta liên hệ bản thân với những môi trường này và cách xã hội tương quan với chúng.

Self-concept is not static, meaning that it can change. Our environment plays a role in this process. Places we are exposed to, especially those that hold a lot of meaning to us, actively contribute to our future self-concept through how we relate these environments to ourselves and how society relates to them.7

Tự định nghĩa có thể thay đổi dựa trên những người mà bạn tương tác. Điều này phần nào đúng với những người đảm nhận vai trò lãnh đạo trong cuộc sống của chúng ta. Họ có thể ảnh hưởng lên con người tập thể (con người trong các nhóm xã hội) của bạn và con người trong các mối quan hệ của bạn.

Self-concept can also change based on the people with whom we interact. This is particularly true for individuals in our lives who are in leadership roles. They can impact the collective self (the self in social groups) and the relational self (the self in relationships).8

Trong một số trường hợp, chẩn đoán y khoa có thể thay đổi định nghĩa về bản thân bằng cách giúp mọi người hiểu được tại sao họ lại có một số cảm xúc nhất định – như một ai đó được chẩn đoán mắc tự kỷ lúc đã có tuổi, cuối cùng cũng hiểu rõ tại sao trước giờ mình lại cảm thấy khác biệt như vậy.

In some cases, a medical diagnosis can change self-concept by helping people understand why they feel the way they do—such as someone receiving an autism diagnosis later in life, finally providing clarity as to why they feel different.9

Những học thuyết khác về tự định nghĩa bản thân. Other Self-Concept Theories

Cũng như nhiều chủ đề khác trong tâm lý học, có nhiều học thuyết khác đã đặt ra nhiều cách tư duy về tự định nghĩa bản thân. As with many topics within psychology, several other theorists have proposed different ways of thinking about self-concept.

Bản dạng xã hội. Social Identity

Nhà tâm lý học Henri Tajfel đã xây dựng thuyết bản dạng xã hội, cho rằng tự định nghĩa được tạo thành từ hai cấu phần chính: Social psychologist Henri Tajfel developed social identity theory, which states that self-concept is composed of two essential parts:10

– Bản dạng cá nhân: Các tính cách và đặc điểm khác khiến bạn trở nên duy nhất. Personal identity: The traits and other characteristics that make you unique

– Bản dạng xã hội: Con người của bạn dựa trên sự tham gia của bạn vào các nhóm xã hội, như các đội thể thao, nhóm tôn giáo, các đảng phái chính trị, hoặc giai cấp xã hội. Social identity: Who you are based on your membership in social groups, such as sports teams, religions, political parties, or social class

Học thuyết này cho rằng bản dạng xã hội ảnh hưởng lên cách ta tự định nghĩa chính mình, vì vậy ảnh hưởng lên cảm xúc và hành vi của chúng ta. Nếu ta chơi thể thao, chẳng hạn, và đội chơi của chúng ta thua một cuộc chơi, ta sẽ cảm thấy buồn cho họ (cảm xúc) hoặc chống lại đội thắng (hành vi).

This theory states that our social identity influences our self-concept, thus affecting our emotions and behaviors. If we’re playing sports, for instance, and our team loses a game, we might feel sad for the team (emotion) or act out against the winning team (behavior).11

Đa chiều. Multiple Dimensions

Nhà tâm lý học Bruce A. Bracken lại có một học thuyết hơi khác, ông tin rằng tự định nghĩa mang tính đa chiều, bao gồm 6 đặc tính độc lập:

Psychologist Bruce A. Bracken had a slightly different theory and believed that self-concept was multidimensional, consisting of six independent traits:12

– Học thuật: Thành công hoặc thất bại ở trường. Academic: Success or failure in school

– Thể hiện cảm xúc: Nhận thức về các trạng thái cảm xúc. Affect: Awareness of emotional states

– Năng lực: Khả năng đáp ứng những nhu cầu cơ bản. Competence: Ability to meet basic needs

-Gia đình: Mức độ đảm nhiệm vai trò của bạn trong gia đình. Family: How well you work in your family unit

– Thể chất: Bạn cảm thấy thế nào về ngoại hình, sức khỏe, bệnh tật và vẻ ngoài nói chung. Physical: How you feel about your looks, health, physical condition, and overall appearance

– Xã hội: Khả năng tương tác với mọi người. Social: Ability to interact with others

Năm 1992, Bracken đã xây dựng Thang đo tự định nghĩa đa chiều, một bài đánh giá toàn diện từng thành tố trong 6 thành tố kể trên trong quá trình tự định nghĩa bản thân ở trẻ và thanh thiếu niên.

In 1992, Bracken developed the Multidimensional Self-Concept Scale, a comprehensive assessment that evaluates each of these six elements of self-concept in children and adolescents.12

Câu hỏi thường gặp. FAQs

Khi nào quá trình tự định nghĩa bản thân kết thúc? When is the development of self-concept finished?

Tự định nghĩa sẽ phát triển không chấm dứt. Mặc dù bản dạng cá nhân được cho là chủ yếu hình thành trong thời thơ ấu, nhưng trải nghiệm làm người trưởng thành cũng có thể thay đổi cách bạn cảm nhận về bản thân. Nếu lòng tự trọng tăng lên trong khoảng thời gian sau này của cuộc đời, chẳng hạn, thì nó cũng có thể cải thiện định nghĩa của bạn về bản thân.

Self-concept development is never finished. Though self-identity is thought to be primarily formed in childhood, your experiences as an adult can also change how you feel about yourself. If your self-esteem increases later in life, for instance, it can improve your self-concept.

Tự định nghĩa ảnh hưởng thế nào lên giao tiếp? How does self-concept affect communication?

Quá trình ta tự định nghĩa bản thân có thể ảnh hưởng lên phương thức ta giao tiếp. Nếu bạn thấy mình là một nhà văn giỏi, chẳng hạn thì bạn sẽ thích giao tiếp bằng văn bản hơn là trò chuyện với mọi người.

Our self-concept can affect the method by which we communicate. If you feel you are a good writer, for instance, you may prefer to communicate in writing versus speaking with others.

Nó cũng có thể ảnh hưởng cách ta giao tiếp. Nếu nhóm xã hội của bạn giao tiếp theo một cách nhất định nào đó, bạn cũng sẽ dễ chọn giao tiếp theo kiểu này. Nghiên cứu trên nhóm thanh thiếu niên đã liên kết tự định nghĩa bản thân tốt sẽ giúp tham dự viên giao tiếp cởi mở hơn với cha mẹ.

It can also affect the way we communicate. If your social group communicates a certain way, you would likely choose to communicate that way as well.13 Studies on teens have connected high self-concept clarity with more open communication with parents.14

Sự khác biệt giữa tự định nghĩa và tự trọng? What is the difference between self-concept and self-esteem?

Tự định nghĩa bản thân là một mô tả rộng về bản thân mình (“Tôi là một nhà văn giỏi”), trong khi tự trọng là bất cứ phán xét hay ý kiến nào ta có về bản thân mình (“Tôi tự hào vì là một nhà văn giỏi”). Nói cách khác, tự định nghĩa trả lời cho câu hỏi: Tôi là ai? Tự trọng trả lời cho câu hỏi: Tôi cảm thấy thế nào về bản thân?

Self-concept refers to a broad description of ourselves (“I am a good writer”), while self-esteem includes any judgments or opinions we have of ourselves (“I feel proud to be a good writer”). Put another way, self-concept answers the question: Who am I? Self-esteem answers the question: How do I feel about who I am?

Tại sao tự định nghĩa bản thân tốt lại có lợi? Why is a well-developed self-concept beneficial?

Định nghĩa của ta về bản thân ảnh hưởng lên cách ta phản hồi cuộc sống, vây nên định nghĩa bản thân tốt giúp ta phản hồi theo những cách tích cực và có lợi hơn cho chúng ta và những người xung quanh. Một trong những cách thực tác động của nó là giúp ta nhận ra được giá trị của bản thân. Tự định nghĩa bản thân tốt cũng giúp ta tránh không thu nạp những phản hồi tiêu cực từ mọi người.

Our self-concept impacts how we respond to life, so a well-developed self-concept helps us respond in ways that are more positive and beneficial for us and those around us. One of the ways it does this is by enabling us to recognize our worth. A well-developed self-concept also helps keep us from internalizing negative feedback from others.

Văn hóa ảnh hưởng thế nào lên quá trình tự định nghĩa bản thân? How does culture influence self-concept?

Các nền văn hóa khác nhau sẽ có những niềm tin khác nhau. Họ có nhiều quan điểm khác nhau về mức độ tự lập hay phụ thuộc của một người nên có, cũng như các niềm tin và góc nhìn tôn giáo trong sự phát triển kinh tế xã hội.

Different cultures have different beliefs. They have different ideas of how dependent or independent one should be, as well as religious beliefs and views of socioeconomic development.

Tất cả những quy chuẩn văn hóa đều ảnh hưởng lên quá trịnh tự định nghĩa bản thân qua cấu trúc về cá mà xã hội mong đợi và cách một người nhìn nhận bản thân trong mối liên hệ với mọi người.

All of these cultural norms influence self-concept by providing the structure of what is expected within that society and how one sees oneself in relation to others.15

Tham khảo. Sources

Bailey JA 2nd. Self-image, self-concept, and self-identity revisited. J Natl Med Assoc. 2003;95(5):383-386.

Mercer S. Self-concept: Situating the self. In: Mercer S, Ryan S, Williams M, eds. Psychology for Language Learning. Palgrave Macmillan; 2012. doi:10.1057/9781137032829_2

Argyle M. Social encounters: Contributions to Social Interaction. 1st ed. Routledge; 1973.

Koch S. Formulations of the person and the social context. In: Psychology: A Study of a Science. Vol. III. McGraw-Hill;1959:184-256.

Pesu L, Viljaranta J, Aunola K. The role of parents’ and teachers’ beliefs in children’s self-concept development. J App Develop Psychol. 2016;44:63-71. doi:10.1016/j.appdev.2016.03.001

Vandenbosch L, Eggermont S. The interrelated roles of mass media and social media in adolescents’ development of an objectified self-concept: A longitudinal study. Communc Res. 2015. doi:10.1177/0093650215600488

Prince D. What about place? Considering the role of physical environment on youth imagining of future possible selves. J Youth Stud. 2014;17(6):697-716. doi:10.1080/13676261.2013.836591

Kark R, Shamir B. The dual effect of transformational leadership: Priming relational and collective selves and further effects on followers. In: Avolio BJ, Yammarino FJ, eds. Monographs in Leadership and Management. Vol 5. Emerald Group Publishing Limited; 2013:77-101. doi:10.1108/S1479-357120130000005010

Stagg SD, Belcher H. Living with autism without knowing: Receiving a diagnosis in later life. Health Psychol Behav Med. 2019;7(1):348-361. doi:10.1080/21642850.2019.1684920

Tajfel H, Turner J. An integrative theory of intergroup conflict. In: Hogg MA, Abrams D, eds. Intergroup Relations: Essential Readings. Psychology Press; 2001:94–109.

Scheepers D, Ellemers N. Social identity theory. In: Sassenberg K, Vliek MLW, eds. Social Psychology in Action. Springer International Publishing; 2019:129-143. doi:10.1007/978-3-030-13788-5_9

Bracken BA. Multidimensional Self Concept Scale. American Psychological Association; 2016. doi:10.1037/t01247-000

Sampthirao P. Self-concept and interpersonal communication. Int J Indian Psychol. 2016;3(3):6. doi:10.25215/0303.115

Van Dijk MPA, Branje S, Keijsers L, Hawk ST, Hale WW, Meeus W. Self-concept clarity across adolescence: Longitudinal associations with open communication with parents and internalizing symptoms. J Youth Adolesc. 2013;43:1861-1876. doi:10.1007/s10964-013-0055-x

Vignoles V, Owe E, Becker M, et al. Beyond the ‘east-west’ dichotomy: Global variation in cultural models of selfhood. J Exp Psychol Gen. 2016;145(8):966-1000. doi:10.1037/xge0000175